Tên thật: | Huỳnh Trí Bá |
Nghệ danh: | Viễn Châu (NSND) |
Năm sinh: | 1924 |
Quê quán: | Đôn Châu, Trà Cú, Trà Vinh |
Thế hệ: | Thế hệ 1950 - 1975 |
Viễn Châu (tên thật Huỳnh Trí Bá, 21 tháng 10 năm 1924 - 1 tháng 2 năm 2016) là danh cầm đàn tranh và soạn giả cải lương người Việt Nam. Ông được cho là người đã khai sinh ra thể loại cải lương tân cổ giao duyên và đã có công đào tạo ra nhiều thế hệ nghệ sĩ cải lương danh tiếng một thời. Ông được Nhà nước Việt Nam trao danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.
Ông sinh năm 1924, tại xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Ông xuất thân trong gia đình vọng tộc, thân phụ là Hương cả, là con thứ sáu trong gia đình, ông còn có tên là Bảy Bá theo thông lệ miền Nam.
Thuở nhỏ, ông học quốc văn ở trường làng và học Hán văn với những bậc túc nho ở tại nhà. Ngoài ra, khi còn học ở trường, ông đã mê đờn ca, cả tân lẫn cổ, thường có mặt trong các buổi đờn ca tài tử, hoặc cùng bạn bè tổ chức đờn ca. Ông mày mò những ngón đờn học lỏm qua đĩa hát nhựa cũng như các nhóm đờn ca tài tử ở làng quê. Đến năm 19 tuổi, ông đàn thạo các loại đàn tranh, vĩ cầm, guitar và được nhiều người khen ngợi.
Ông được mệnh danh là "vua của các vị vua cải lương", "là người tạo danh cho các nghệ sĩ", bởi qua nhiều sáng tác của ông, nhiều nghệ sĩ khi thể hiện đã được cái ưa thích để đông đảo người xem chú ý hơn, ví dụ như: Mỹ Châu với bài Hòn vọng phu, Út Trà Ôn với Tình anh bán chiếu,... Bên cạnh đó, ông cũng sáng tác ra nhiều bài vọng cổ hài hước mà sau này được nhiều gương mặt nổi danh như nghệ sĩ Văn Hường, Hề Sa,...
Không có Viễn Châu là không có Ngọc Giàu cũng như gần hết các tên tuổi cải lương nổi tiếng của cải lương thời hoàng kim.
Ngọc Giàu
Nhờ bài vọng cổ "Tình anh bán chiếu" mà Ngã Bảy Phụng Hiệp được nổi danh khắp vùng Nam bộ nên địa phương rất biết ơn soạn giả Viễn Châu.
Lê Phú Khải, dẫn lời một lãnh đạo Huyện ủy Phụng Hiệp (Báo Cần Thơ)
Một sáng tạo của Viễn Châu có ý nghĩa đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật là việc ghép tân nhạc vào bản vọng cổ mà ông gọi là Tân cổ giao duyên. Bản tân cổ giao duyên đầu tiên của ông có tựa Chàng là ai (Tân nhạc: Nguyễn Hữu Thiết), sáng tác từ năm 1958, do Lệ Thủy ca năm 1964[1]. Dù thể loại mới này đã gây ra nhiều tranh cãi trên báo chí thời bấy giờ, nhưng sức tồn tại của nó cũng như sự hâm mộ của công chúng là bằng chứng cụ thể nhất đối với tân cổ giao duyên.
Tham thảo: Wikipedia
Trong khói hương mơ màng tung bay Đêm tóc tang u buồn nhớ ai! Nửa chừng duyên kiếp chia phôi Ai đi cách mấy phương trời
Nghe hung tin Nhị Ca đà thọ khổn Hồng Đào San em quay ngựa trở về đây. Khoan khoan, hãy để anh cạn phân đừng giết oan một trang hào kiệt, nghe lời anh đình thủ bớ La Thành. La Thành ơi! Anh trách em sao ở ăn quá nghiệt, nỡ vung gươm giết thác bạn anh hùng.
Lời Mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào. Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng… Mẹ yêu. Mẹ ơi mẹ đã ru con suốt cuộc đời của mẹ, từ chiếc võng thơ ngây qua lời ru êm ả đã theo chân con trẻ trên vạn nẻo… sông… hồ Công mẹ sanh con ví bằng năm biển lớn. Chỉ có càn khôn kia không bờ không bến mới sánh được với lòng mẹ thương con vốn không tận… không... cùng.
Từ miền Nam anh ngược ra Bắc. Mang theo câu hò điệu lý chín dòng sông. Nghe tiếng con Hoàng Oanh hót líu lo trong chiếc lồng son làm em giật mình tỉnh giấc. Bỗng có tiếng còi tàu từ xa vọng lại khi sương khuya ướt đọng… trên… cành.
Tiếng trống sang canh, báo hiệu giờ bình minh. Con thuyền lướt sóng ra khơi, là tình ta chia cách đôi nơi. Người ơi từ đây mình phải xa nhau đất Việt trời Ngô đành phải chia ly con tạo lá lai sắp bày chi ngang trái. Khiến cho yến oanh đôi đường đôi ngã Kẻ ở đầu sông người nơi cuối bãi, nước mắt trông theo nghìn trùng quan tái, gọi cố nhân ơi, cố nhân ơi tình của đôi ta đã cách biệt… đôi… đường.
Nước giếng trong giữa đồi cát mịn, ánh nguyệt mờ soi đôi bóng giao... kề. Dưới trăng khuya tôi với em quảy gánh ra về.
Thôi rồi ta đã xa nhau kể từ đêm pháo đỏ rượu hồng. Anh đường anh em đường em yêu thương xưa chỉ còn âm thầm. Chuyện ngày xưa suốt đời em ghi nhớ. Nếu phải xa nhau tình đầu dang dở thì trọn kiếp còn đau đến vạn ngày sau thì ai quên được bao... giờ.
Hàn Măc Tử ơi, trăng tàn sao rụng đất Quy Nhơn đã vắng bóng…. anh…. rồi…. Có một vầng trăng cũng khuất dạng sau đồi. Anh ra đi không một lời
Máu thắm pha hồng nhuộm chiến y Tả tơi khôi giáp rách quân kỳ Ngập ngừng vó ngựa miền quan tái Giữa chốn sa trường vạn tử thi
Buồn ơi hai tiếng từ ly não nề. Vì đâu hai đứa đành phải xa nhau. Lối nhỏ đường chẳng xót xa, nay đã tàn theo gió mưa, phương trời Quy Nhơn nhạt nhòa. Mộng Cầm ơi, nếu sợ tiếng từ ly thì em hãy về đi cho anh gói tròn thân phận. Vì trọn cuộc đời anh đã mang nhiều cay đắng nên cũng chẳng muốn chở tình ai cho nặng gánh… phiêu… bồng.